Ngạch Âm Hòa Bố chợt nổi giận, bỗng nghe tiếng chuông leng keng bên ngoài vọng vào, tiếp theo là mấy tiếng kêu thảm, Phùng Anh cả mừng: “Võ lão tiền bối đã đến!” Ngạch Âm Hòa Bố cả giận nhảy vọt ra cửa chùa, dưới ánh trăng chỉ thấy một lang trung giang hồ tay phải cầm một cây gậy, tay trái lắc cái chuông đồng bước thẳng về phía mình, bọn lính canh ở ngoài đều bị người ấy đánh ngã.
Ngạch Âm Hòa Bố trừng mắt quát: “Ai? Đứng lại!” té ra người đó là Võ Thành Hóa, chỉ thấy ông ta cười lạnh nói: “Phách lối thật! Ngươi muốn hỏi ta là ai? Ta là sứ giả chiêu hồn cho ngươi!” rồi lắc cái chuông kêu lên leng keng. Ngạch Âm Hòa Bố cả giận đẩy vù ra một chưởng, Võ Thành Hóa không hề nhúc nhích, cười ha hả giơ cây gậy đánh tới, Ngạch Âm Hòa Bố quét cây phất trần cuộn trúng cây gậy của ông ta nhưng vẫn bị ông ta đẩy lui hai bước. Ngạch Âm Hòa Bố cả kinh, ngầm vận nội lực kéo sang một bên; Võ Thành Hóa cũng thất kinh, tuy cây gậy không vụt ra khỏi tay nhưng ông ta cũng không thể đánh tới được. Hai người đều ngầm vận nội lực hạ nhau.
Phùng Anh lướt tới, kêu: “Võ tiền bối, người đến thật đúng lúc!” Võ Thành Hóa nói: “Có phải tên này cậy người đông bức hiếp ngươi không?” Phùng Anh cười nói: “Y làm gì có bản lĩnh ấy!” rồi quay mặt sang nhìn Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Ngươi có muốn đấu nữa không?” Ngạch Âm Hòa Bố thâu cây phất trần, nhảy vọt qua hai bước, nói: “Được, chúng ta dừng tay, sau này gặp lại ta sẽ không tha cho ngươi”. Phùng Anh cười nói: “Vậy chờ sau này hẳn tính”. Võ Thành Hóa quét mắt nhìn Ngạch Âm Hòa Bố rồi nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc!” Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Đáng tiếc thế này!” Võ Thành Hóa nói: “Chả lẽ ngươi không biết kết cuộc của Liễu Ân?” Ngạch Âm Hòa Bố nghe thế giật mình, giơ cao cây phất trần, Võ Thành Hóa nói: “Có phải còn muốn đánh với ta không?” Ngạch Âm Hòa Bố chẳng nói lời nào, quay mình dắt bọn lính đi nhanh xuống núi. Dận Đường bị vặn gãy xương cổ tay, đau đến nỗi ngất đi, cũng được bọn lính cõng xuống núi.
Võ Thành Hóa cười nói: “Ta nghe nói các người lại xuống Thiên Sơn, biết thể nào cũng đến tìm Lữ Tứ Nương nhưng không ngờ gặp ở đây. Sư phụ của ngươi khỏe không?” Phùng Anh nói: “Chúng ta khoan nói chuyện này, xem thử Đường Kim Phong đã thế nào!” Võ Thành Hóa nói: “Đường Kim Phong là ai?” Phùng Anh nói: “Là một tiền bối võ lâm, ám khí thiên hạ vô song”. Võ Thành Hóa nói: “Ồ, thế là người của Đường gia tứ xuyên rồi, làm sao các ngươi quen y?”
Họ vừa đi vào trong miếu, chỉ thấy Đường Kim Phong vẫn ngồi xếp bằng, sắc mặt tái nhợt. Đường Trại Hoa bế Niên Thọ, mặt đầy vẻ lo lắng, khẽ hỏi: “Cha, thế nào rồi?” Đường Kim Phong mỉm cười nói: “May mà vẫn còn giữ được mạng của đứa trẻ. Ta không xong rồi. Con hãy bế nó về. Ta nhận nó làm cháu ngoại”. Đường Trại Hoa rơi nước mắt như mưa, nói: “Cha, có phải cha đã bị thương rất nặng không? Chúng ta mang theo toàn là thuốc tốt”. Đường Kim Phong cười khổ nói: “Thuốc tốt chẳng ích gì, ta bị chưởng lực của tên ấy chấn động, lại khổ chiến một hồi, sức cùng lực kiệt, tựa như đèn khô dầu cạn, làm sao có thuốc nào chữa nỗi!” Phùng Anh chợt nói: “Thuốc của tôi có thể cứu nỗi”. Đường Trại Hoa cả mừng, không màng đến thù hận trước kia, vội nói: “Vậy xin cô nương hãy mau cứu!” Đường Kim Phong có vẻ không tin, hỏi: “Thuốc gì?” Phùng Anh lấy ra một cái bình bạc nhỏ xíu, đổ ra ba viên thuốc màu xanh lục, lập tức hương thơm xông vào mũi, tinh thần sảng khoái, Phùng Anh đưa viên thuốc cho Đường Kim Phong nói: “Đây là Bích linh đơn được bào chế từ Thiên Sơn tuyết liên, bổ khí ích huyết, trị thương giải độc đều có hiệu quả. Lão tiền bối có căn cơ vững chắc, được nó cố bản bùi nguyên, không những chẳng lo đến tính mạng mà võ công cũng không đến nỗi giảm sút”.
Đường Kim Phong nuốt ba viên Bích linh đơn, chỉ cảm thấy một luồng khí mát mẻ dâng lên đang điền, cười rằng: “Thiên Sơn tuyết liên quả nhiên danh đồn không oa, đúng là linh đơn diệu dược”. Niên Thọ mở mắt nhìn Đường Kim Phong, Phùng Anh nói: “Cậu bé, ngươi đã thoát chết, ngươi biết có nên đáp tạ ai không?” Niên Thọ rất ngoan ngoãn, bước tới quỳ xuống đất, dập đầu ba cái truớc Đường Trại Hoa, kêu một tiếng “mẹ”. Đường Trại Hoa mừng rỡ nói: “Con ngoan, con ngoan”. Niên Thọ lại dập đầu trước Đường Kim Phong ba cái kêu: “Công công”. Đường Trại Hoa cười nói: “Phải kêu là ngoại công”. Đường Kim Phong cười ôm cậu bé vào lòng.
Đường Hiểu Lan nói: “Đứa bé này rất thông minh, giống như cha nó”. Phùng Anh nói: “Cũng mong nó không hoàn toàn giống cha”. Võ Thành Hóa nhìn sắc trời, thấy đã hơi hửng sáng, cười nói: “Chúng tôi phải đi trước một bước, ông cứ ngồi đã tọa một lúc, khí lực sẽ hồi phục ngay, xin thứ chúng tôi không thể đi cùng”. Đường Trại Hoa nói lời tạ ơn với Phùng Anh, giờ đây mối thù hận giữa cha con họ Đường với chị em họ Phùng đã tiêu biến.
Võ Thành Hóa và hai người Phùng Đường xuống Tung Sơn, Võ Thành Hóa nói: “Có phải các ngươi lên Mang Sơn không?” Phùng Anh nói: “Đúng thế. Mẹ của vãn bối đang ở Mang Sơn, người có biết không?” Võ Thành Hóa cười nói: “Mẹ của ngươi đã không còn ở Mang Sơn nữa. Ngươi có muốn gặp bà ta không?” Phùng Anh kinh hãi hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?” Võ Thành Hóa cười nói: “Vốn là xảy ra chuyện nhưng giờ không hề gì nữa. Tên tiểu tử Ung Chính này thật độc ác, sau khi tước binh quyền của Niên Canh Nghiêu, lùng bắt các chí sĩ càng nghiêm ngặt hơn, y biết ở Mang Sơn có anh hùng hào kiệt tụ hội liền phái đại quân bao vây, may mà Lữ Tứ Nương biết được tin này đã đưa mọi người đến Thiên Sơn”. Đường Hiểu Lan nói: “Sắp xếp rất tốt, nửa đời họ gặp hoạn nạn, cũng nên an hưởng tuổi già. Võ tiền bối, ông gặp Lữ Tứ Nương ở đâu?” Võ Thành Hóa nói: “Ở gần kinh thành. Lữ Tứ Nương muốn vào kinh ám sát Ung Chính nhưng trong cung canh gác nghiêm ngặt, chẳng có cơ hội ra tay. Ta vốn muốn đi tìm Lý Trị, gặp Lữ Tứ Nương mới biết họ đã đi Tứ Xuyên”. Phùng Anh nói: “Vậy mẹ của vãn bối lúc này ở đâu?” Võ Thành Hóa nói: “Họ chia nhau lên đường, ta đi trước dò đường, đêm qua đi ngang qua Tung Sơn, họ đang ở một nơi dưới chân núi”. Phùng Anh cả mừng, lập tức cùng Đường Hiểu Lan đến gặp mẹ.
Lại nói Lý Trị và bọn Quan Đông tứ hiệp đi được hơn một tháng đến Mang Sơn, nhưng thấy trên núi là một đống đổ nát hoang tàn, ai nấy đều trợn mắt há mồm, tưởng rằng Mang Sơn cũng bị hỏa thiêu như chùa Thiếu Lâm, Phùng Lâm và Lý Trị càng lo hơn, chợt nghe trong đám cây xum xuê um tùm chim chóc bay lên, trong chớp mắt nghe tiếng vù vù, chỉ thấy hai con chim đại bàng một trắng một đen dang cánh chao lượn trên đầu họ, Huyền Phong kêu: “Đây là hai con chim đại bàng của Độc tý thần ni, không ngờ đến nay vẫn còn sống”. Hai con chim đại bàng lượn một hồi rồi bay xuống núi. Mọi người chạy theo hướng chim bay, đi qua nơi góc hẹp, chợt thấy rộng rãi, trước mắt toàn là hoa dại, trên núi đối diện có dòng thác buông xuống, Huyền Phong nói: “Từ nơi này đi tiếp chính là mộ địa của Độc tý thần ni. Chắc là nơi này thấy núi hiểm yếu, bọn quan quân không thấy ai vả lại chẳng thấy nhà cửa nên không phóng hỏa”. Khi đang nói chợt nghe một tràng cười dài, Lữ Tứ Nương và Phùng Anh đã xuất hiện, cười rằng: “Tôi tưởng là ai, té ra là các vị”. Đường Hiểu Lan cũng bước ra gặp gỡ mọi người, ai nấy đều mừng rỡ.
Lữ Tứ Nương nói: “Tháng trước Mang Sơn đã bị hỏa thiêu, bọn quan quân thấy trên núi không có ai, sau khi phóng hỏa đã bỏ đi. Lăng mộ sư phụ tôi vẫn nguyên vẹn, đúng là may mắn. Tôi liệu rằng Phùng Anh sẽ trở về nên một mình lên Mang Sơn đợi mọi người, không ngờ Hiểu Lan và Phùng Anh đến trước”.
Mọi người trò chuyện một hồi, Huyền Phong hỏi: “Nữ hiệp vừa từ kinh thành trở về, chắc có tin tức gì?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Tin tức thì có nhưng chắc là mọi người đã đoán ra”. Huyền Phong nói: “Có phải Niên Canh Nghiêu bị xử tử không?” Lữ Tứ Nương nói: “Đúng thế. Sau khi Niên Canh Nghiêu bị áp giải về kinh, tấu chương vạch tội của tướng quân thành Hàng Châu Lục Hổ Thần cũng được dâng lên, đúng là dậu đỗ bìm leo, các đại thần trong triều đều dâng sớ hạch tội Niên Canh Nghiêu, tính ra y có chín mươi hai tội!” Phùng Lâm lè lưỡi kêu: “Ồ, nhiều đến thế ư!” Lữ Tứ Nương nói: “Ung Chính đích thân ra chỉ dụ, bảo rằng y có năm tội đại nghịch, chín tội khi quân, mười sáu tội lạm quyền, ba mươi tội cuồng vọng, sáu tội ngang ngược, mười tám tội tham ô, sáu tội đố kỵ, mười lăm tội đục khoét, bốn tội tàn nhẫn, vì thế Ung Chính đã ra lệnh xử trảm Niên Canh Nghiêu”.
Sau khi giết Niên Canh Nghiêu, Ung Chính sợ có thích khách hành thích, không những cho canh phòng nghiêm ngặt hơn mà còn cấm ngặt cả những hoạt động trong cung, hàng đêm phải thay đổi chỗ ngủ, lúc nào cũng lo lắng đề phòng.
Nhưng là một Hoàng đế như thế thật đau khổ. Hơn nửa năm sau, Ung Chính thấy yên bình chẳng có việc gì nên định cấm thả lỏng, thời gian qua mau, đông đi thu đến, đã đến ngày tết, trong chớp mắt lại đến tết nguyên tiêu, mẹ ruột của Ung Chính vốn là một phi tử của Khang Hy, nay đã là thái hậu. Nửa năm qua ngồi bó gối trong cung, rất khó chịu, nhân lúc nguyên tiêu sắp đến lại liền bỏ Ung Chính bỏ lệnh cấm. Ngoài các nhạc sư cung đình, có thể gọi thêm cao thủ giáp vườn bên ngoài vào diễn, lại còn cho phép các bối lạc thân cận đến góp vui. Ung Chính nghĩ, những người có thể đối chọi với mình đều đã bị trừ, những kẻ còn lại không dám hai lòng, thế là bỏ lệnh cấm. Tin tức này rất bí mật, đến trước đêm nguyên tiêu mới báo cho các bối lạc biết. Điều đó khiến một người mừng hơn.
Người này chính là thân vương Dận Anh, con thứ mười sáu của Khang Hy. Y là huynh đệ cùng cha cùng mẹ với Ung Chính, trong số các bối lạc, tuổi tác nhỏ nhất, cho nên khi Khang Hy còn sống, y không tranh giành ngôi báu cho nên giữ được mạng.
Dận Anh trẻ tuổi thích chơi bời, cũng thích luyện võ, một tháng trước, có người tiến cử một võ sư cho y, người võ sư này thân hình bình thường, mặt mũi không có gì lạ, Dận Anh không tin y có bản lĩnh, nhất thời nổi hứng tỉ thí với y, quyền cước vừa mới chạm vào người y đã bị y quật ngã. Người ấy tự xưng là Đường Long, không những tinh thông võ công mà còn giỏi các tạp nghệ, Dận Anh rất thích, giữ luôn y trong phủ. Ung Chính bỏ lệnh cấm, Dận Anh hỏi Đường Long có trò gì hay không, Đường Long đáp: “Có, có!” rồi lập tức trổ tài. Dận Anh thích lắm, Đường Long lại bảo phải mời thêm vài trợ thủ, Dận Anh cũng chấp nhận.
Trong đêm nguyên tiêu, cấm thành treo đèn kết hoa, cực kỳ náo nhiệt, trong ngự hoa viên đã dựng hí đài, các hoàng thân quốc thích ngồi xung quanh, bên hí đài còn bắt một khán đài, Ung Chính và các phi tần cùng thái hậu ngồi trên đài thưởng thức.
Thái hậu rất thích các loại tạp kỹ, hễ thấy trò nào hay là thưởng tiền, đến khi đám người của Dận Anh lên đài, thái hậu càng vui hơn, cười nói với Ung Chính: “Tiểu đệ của con xưa nay thích bày trò, xem thử hắn có gì hay?”
Chỉ thấy đám người ăn mặc lòe loẹt lên đài, thái hậu hỏi: “Diễn tuồng gì mà ăn mặc kỳ quặc đến thế?” Dận Anh trả lời: “Không phải diễn tuồng mà là tạp kỹ”. Ung Chính giật mình, nhưng thấy hai người đứng trên đài, kéo tay so vai, một người nhảy lên, hai chân đạp lên hai vai của hai người này, một người nữa lại nhảy lên vai của người lúc nãy, Ung Chính nói: “Công phu của bọn người này thật giỏi...” nói chưa dứt lời, chỉ thấy một hán tử người thấp bé cuối cùng nhảy vọt lên, trên đầu đặt một cái bát nước, hai tay cũng cầm hai cái bát nước, y hơi nghiêng người, nước trong ba cái bát sánh ra ngoài, chứng minh trong bát chứa đầy nước. Chỉ thấy y vung hai tay, hai cái bát nước bay lên không trung, lại ném vù ra hai sợi dây màu cuộn lấy bát nước trên không trung, không những bát nước trên đỉnh đầu chẳng rơi ra giọt nào mà cả hai bát nước trên không trung cũng hạ xuống đất không vãi ra một giọt nước.
Trong tiếng reo hò, người ấy lại múa sợi dây, hai bát nước bay lượn, càng lúc càng nhanh, thái hậu cao giọng khen hay, người ấy buông tay. Bát nước quay hai vòng trên đỉnh đầu của y, y lại đưa tay chụp đoạn giữa của sợi dây màu, vừa múa sợi dây vừa xoay bát nước, thái hậu khen liền miệng. Ung Chính ngưng thần nhìn kỹ, không hề reo hò, chợt hỏi Dận Anh: “Những người này vốn là trong phủ của đệ phải không?” Dận Anh đang ngưng thần xem, không kịp trả lời, chỉ thấy sợi dây chợt chuyển hướng trên không trung, xếp thành bốn chữ “Thiên hạ thái bình”, thái hậu mừng rỡ nói: “Đúng là thần kỹ, thưởng tiền!” thái giám liền vãi hai nắm bạc trên sân khấu, Ung Chính chợt kêu lên: “Bắt những kẻ này xuống tra hỏi!”
Bạc bay như mưa lên hí đài, người xem bên dưới lại reo hò ỏm tỏi, tiếng hét của Ung Chính khiến mọi người đều thất kinh, tiếng reo hò ngừng lại, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, chỉ thấy hán tử người thấp bé vung sợi dây kêu vù một tiếng, hai luồng bạch quang bay tới như điện xẹt lướt vào mặt Ung Chính. Té ra trong sợi dây màu có giấu hai mũi trủy thủ.
Ung Chính đã đề phòng trước, sau khi quát một tiếng thì người đã lách vào trong đám phi tần, hai mũi trủy thủ đâm vào xương vai của hai ả phi tần, đột nhiên tiếng kêu kinh hãi vang lên, hoàng thái hậu bất tỉnh, các phi tần phát hoảng dồn vào nhau. Trong khoảng sát na này, hán tử lại vọt người lên, lao bổ lên khán đài như một con chim, ba bát nước đều tạt vào người Ung Chính, Ung Chính chẳng mở mắt ra nỗi, chỉ thấy một luồng hàn phong quét tới, khí lạnh căm căm, một thanh đoản kiếm bén ngót đã chạm vào lưng.
Nhưng trái lại Ung Chính rất lanh lẹ, trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, y co hai tay kéo hai ả phi tần đẩy ra sau lưng mình, hán tử rút tay không kịp, thấy hai người phụ nữ yếu ớt đổ máu, vừa kinh vừa giận, quát lớn một tiếng rút kiếm lao bổ tới, Ung Chính đã phóng người lên lan can lầu.
Hán tử chính là Cam Phụng Trì. Chàng lẫn vào trong phủ Dận Trinh, khó khăn lắm mới chờ được cơ hội, nào có thể bỏ qua, biết rõ cực kỳ nguy hiểm nhưng cũng đuổi theo không rời.
Bốn người đi cùng Cam Phụng Trì chẳng phải ai khác mà chính là Đường Hiểu Lan, Lý Trị, Bạch Thái Quan và Ngư Xác. Họ chậm một bước, đã bị bọn lính dưới hí đài chặn lại, Cáp Bố Đà múa cây trùy Lưu Tinh, Hàn Trọng Sơn rút cây tị vân trợ, trong lúc gấp gáp, bọn họ chẳng thể nào xông ra được.
Đường Hiểu Lan nóng lòng, lia cây Du Long kiếm một vòng, kêu một tiếng, ánh lửa tóe ra, cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn đã bị chặt mất một mảng. Hàn Trọng Sơn nói: “Hừ, té ra là ngươi, phản nghịch thật lớn gan!” tuy Đường Hiểu Lan có kiếm bén nhưng công lực lại không đủ, bị y đẩy lùi hai bước. Một tên lính phía sau múa hỗn nguyên thiết bài bổ xuống đầu chàng, chợt bị Lý Trị đâm xéo một kiếm, cái thiết bài vọt khỏi tay bay ra, đánh trúng một tên khác.
Lý Trị lại múa tiếp thanh kiếm, đâm thêm hai tên lính nữa. Cáp Bố Đà múa chùy nghênh địch, Lý Trị dùng đoản kiếm nên không áp sát vào được, bị hai cái chùy Lưu Tinh của y dồn ép nên không thể thi triển thân thủ.
Bạch Thái Quan thấy Cam Phụng Trì đã phóng lên Thưởng âm các rồi mất dạng, cũng không nghe thấy tiếng chém giết, lại không thấy bóng người nên càng lo hơn. Chàng phóng ra mai hoa trâm, tuy đả thương được vài người nhưng Thiên Diệp Tản Nhân đã đuổi tới, vận chưởng lực dồn ép chàng. Đang lúc căng thẳng tột độ, chợt nghe thấy một tiếng kêu, chỉ thấy từ Thưởng âm các có người nhảy ra như sao sẹt, ngã xuống dòng Ngự Hà.
Bạch Thái Quan kinh hoảng kêu: “Không xong, thất ca bị hại!” chỉ nghe trên lầu vang lên tiếng cười ha hả, Ung Chính lại bước ra, cao giọng quát: “Cam Phụng Trì hôm nay đã bị giết, trẫm mở lượng khoan thứ, những kẻ phản nghịch còn lại nếu bỏ binh khí đầu hàng có thể miễn tội”. Ngư Xác cả giận quát: “Ai tin lời ngươi!” rồi vung đao chém tới, chặt một tên lính thành hai đoạn, khi vung tiếp đao thứ hai thì đã bị Hàn Trọng Sơn vung trợ chặn lại.
Ung Chính cười ha hả, kêu lớn: “Giết chết bọn phản nghịch cho trẫm!” chỉ nghe một tiếng “lãnh chỉ” trong Thưởng âm các lại có một người phóng ra, tay múa cây phất trần từ trên không đánh xuống, phất trần vừa triển khai, lập tức đã cuộn cây đao của Ngư Xác kéo lên không trung, Đường Hiểu Lan thất kinh, vẫy nhẹ cây Du Long kiếm, sử dụng tuyệt chiêu Đại Mạc Lưu Sa trong Thiên Sơn kiếm pháp, chỉ thấy khắp người toàn là kiếm quang, Ngạch Âm Hòa Bố đã biết kiếm của chàng lợi hại không dám đánh tới mà lướt ra phía sau Bạch Thái Quan thi triển đòn sát thủ!
Bạch Thái Quan xoay bước lướt qua một bên, chợt trở tay phóng tới một nắm Mai Hoa châm, ánh ngân quang loang loáng, toàn bay vào mặt của Ngạch Âm Hòa Bố, nào ngờ Ngạch Âm Hòa Bố múa cây phất trần lên một vòng, chỉ nghe tiếng loạt soạt vang lên, toàn bộ số mai hoa trâm đã bị y cuộn mất.
Lý Trị thấy thế không xong, vung kiếm đâm vào hai mắt của Ngạch Âm Hòa Bố, Ngạch Âm Hòa Bố múa cây phất trần, nào ngờ kiếm của Lý Trị rõ ràng là đâm vào bên trái nhưng chợt xoay một vòng đâm sang bên phải, Ngạch Âm Hòa Bố khom người mới tránh được. Lý Trị vung kiếm đâm tiếp, Thiên Diệp Tản Nhân bất ngờ phóng ra đẩy hai chưởng như sấm sét, Lý Trị bất đồ thoái lui hai bước, Ngạch Âm Hòa Bố vươn người quét phất trần đánh vù một tiếng chụp xuống đầu chàng.
Đang lúc nguy cấp, chợt nghe một tiếng quát trong trẻo từ trên không vọng xuống, Thiên Diệp Tản Nhân kêu: “Thượng nhân cẩn thận, ả tiện tì lại tới!” nói chưa dứt lời, ở góc ngự hoa viên lại có mấy người nữa phóng ra, nhìn kỹ lại thì ra đó là ba thiếu nữ, quần áo của các nàng phấp phới tựa như thiên tiên. Ba người này chính là Lữ Tứ Nương, Phùng Anh và Phùng Lâm.
Ngạch Âm Hòa Bố kêu mộ tiếng không xong, chạy đến chặn lại, Đường Hiểu Lan đã kêu lớn: “Ung Chính đang ở Thưởng âm các”. Lữ Tứ Nương điểm mũi chân phóng vọt lên, chỉ trong chớp mắt đã lao lên lan can lầu, nhảy vào trong các, nhưng chẳng thấy ai, nàng vừa vào bên trong đã đánh một chiêu Dạ Chiến Bát Phương, lập tức đảo người vọt trở ra, tên bay tới như mưa nhưng vẫn bị nàng chặt gãy cả.
Phùng Anh và Phùng Lâm đi sau một bước, vừa vặn chạm phải Ngạch Âm Hòa Bố, Phùng Anh lia cây đoản kiếm nhanh như điện chớp, một chiêu hai thức, vừa điểm vào mặt, vừa đâm vào ngực của y, Ngạch Âm Hòa Bố xoay người theo kiếm thế, cây phất trần đánh xéo ra, tay phất trần chụp tới, y ra tay đến mức khó hình dung. Phùng Anh không hề lo lắng, nàng chỉ lấy tĩnh chế động, chỉ hơi lách người, kiếm quang chợt tỏa ra, liên tục dùng hai chiêu Lưu Tinh Cản Nguyệt, Phi Vân Ma Điện, cây kiếm của nàng đâm xuyên qua màng lướt của phất trần, xỉa vào huyệt Kỳ Môn dưới hông của y, Ngạch Âm Hòa Bố không ngờ kiếm pháp của Phùng Anh lại tinh thông như thế, phất trần vừa thu, chưởng lực đã phát ra ngoài, chỉ thấy ánh ngân quang lướt tới kêu lên vù vù, Phùng Anh liên tục dùng kình lấy nhu chế cương, cắt đứt một đoạn phất trần của Ngạch Âm Hòa Bố nhưng cũng bị chưởng lực của y đánh lảo đảo.
Đọc đầy đủ truyện chữ Giang Hồ Tam Nữ Hiệp, truyện full Giang Hồ Tam Nữ Hiệp thuộc thể loại Kiếm Hiệp cực kỳ hấp dẫn và kịch tính tại: Giang Hồ Tam Nữ Hiệp